DIỄN ĐÀN GĐPT CẢNH LONG
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC GĐPT VIỆT NAM.

Go down

TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC GĐPT VIỆT NAM. Empty TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC GĐPT VIỆT NAM.

Bài gửi  haquangto Tue Dec 15, 2009 2:54 pm

SƠ LƯỢC BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA
ĐẤT NƯỚC VÀ PHẬT GIÁO

Việt Nam sau Hòa ước Giáp Thân (6-6-1884) thì Nam Kỳ là nhượng địa của Pháp, Trung và Bắc được bảo hộ, nhưng dần dần thực quyền thuộc sự thống trị của Pháp, Triều Đình Việt Nam chỉ giữ hư vị lễ nghi với sự nội trị hạn hẹp và bị khống chế.

Việt Nam trước kia Bắc Nam (dẫu chia Tổng hay Trấn vẫn Triều Đình là Trung Ương) một mối duy nhất về văn hóa lịch sử, phong tục, nay Pháp chia thành ba kỳ: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine).

Mỗi kỳ, Pháp đặt cơ chế hành chánh, chính sách, luật lệ riêng biệt như ba nước, nhằm thực hiện chính sách "chia để trị".
+ Nam Kỳ thuộc địa Pháp (colonie Francaise) đặt một viên Thống Đốc.
+ Trung Kỳ bảo hộ (Protectorat de la France) đặt một viên khâm sứ.
+ Bắc Kỳ bảo hộ (Protectorat de la France) đặt một viên Thống sứ, coi việc cai trị trong mỗi kỳ.

Trên các viên cai trị này có Phủ Toàn Quyền Đông Dương (Gouvernement Général de L'Indochine) gồm thêm cả Lào và Miên, và do một viên Toàn Quyền Đồng Dương (Gouverneur de L'Indcochine) thống lĩnh.

Từ đó, nền văn hóa, phong tục cũng như tập quán cổ truyền dân tộc có phần bị băng hoại, phá sản. Riêng về tín ngưỡng Đạo Phật, trong gần 18 thế kỷ, trải qua các Triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn đã thấm sâu đậm lòng thương yêu rộng lớn và sáng suốt, lại là khuôn mẫu sống trong nhân gian Việt Nam, và đã từng đóng góp tích cực trong công cuộc dựng nước và giữ nước, những lúc suy vong, hay bị ngoại xâm, luôn chung gánh chia sẻ thăng trầm với xứ sở và dân tộc.

Bấy giờ, bị ngược đãi, khinh thường, bị đặt ra ngoài định chế pháp luật về tôn giáo. Không có sự bảo trợ và ưu đãi phát triển như một vài tôn giáo khác trên toàn lãnh thổ ba kỳ Việt Nam.

Mặc dầu việc tổ chức và hành đạo bị thực dân Pháp áp chế, chèn ép bằng mọi hình thức và pháp chế. Song Chư vị Tôn túc Tăng già, Cư sĩ Giáo Phẩm Phật Giáo ba kỳ vẫn có sự liên hệ mật thiết để tùy duyên hoằng pháp độ sanh, chủ trì Đạo pháp.

Mặt khác, đã kịp thời ứng hợp Phong trào Chấn Hưng Phật Giáo được hình thành khắp vùng Đông Nam Á do Ngài Thái Hư đạo sư người Trung Hoa chủ xướng khoảng năm 1920, để hình thành:
+ Tại Nam Kỳ, năm 1931 thành lập Hội nghiên cứu Phật học, và Hội Lưỡng Xuyên Phật học, về sau là hội Phật Học Nam Việt.
+ Tại Trung Kỳ, năm 1932 thành lập Hội An Nam Phật Học.
+ Tại Bắc Kỳ, năm 1934 thành lập Hội Phật Giáo.

Công cuộc chấn hưng, canh tân Phật Giáo không chỉ về tổ chức quản trị, giới luật tu trì của Tăng sĩ, mà còn có sự tham dự hộ pháp của cư sĩ tại gia. Đồng thời đưa Đạo Phật đến với tuổi trẻ: Thanh, thiếu, Đồng niên.
Từ đấy, tùy duyên của hoàn cảnh mỗi kỳ, bắt đầu xúc tiến hình thành "Ban Đồng Ấu Phật Giáo", để quy tụ Thanh, Thiếu, Đồng niên, con em tín hữu đến Chùa học Phật Pháp, học tụng kinh, nghe giảng Giáo lý, vui hát, rước lễ dâng hoa.

Tổ chức "Đồng Ấu Phật Giáo" bắt đầu hình thành tại Huế và Hà Nội, về sau phát triển tới các Tỉnh. Phong trào Chấn hưng Phật Giáo Việt Nam, cũng như phôi thai hình thành Ban Đồng Ấu đang trên đà phát triển với cường độ thuận lợi đầy khả quan, nhưng chưa được bao lâu thì bị gián đoạn trước biến cố lịch sử đất nước, và chiến tranh chống Pháp bùng nổ tại Nam Kỳ (1945), Bắc và Trung Kỳ (1946).
Đến năm 1948, chư vị Tôn túc Tăng già và Cư sĩ tại ba miền, cũng như quần chúng Phật Tử tiếp nối công cuộc chấn hưng và hoằng Pháp. Và đã phục hồi tổ chức “Đồng Au” trước đây với danh xưng “Gia Đình Phật hóa Phổ”.

Đến năm 1951, cải tổ danh xưng "Gia Đình Phật Tử" với sự canh tân về cơ cấu tổ chức điều hành và các hình thức sinh hoạt.

Qua những dữ kiện diễn tiến, từ khởi đầu phôi thai "Ban Đồng Ấu" đến "Gia Đình Phật Hóa Phổ" kết thành "Gia Đình Phật Tử", minh chứng và khẳng định “Ban Đồng Au” là TIỀN THÂN của “Gia Đình Phật Tử” ngày nay như lời tự thuật trong cuốn: “Thử tìm hiểu nguồn gốc Gia Đình Phật Tử Việt Nam” của Trưởng Huynh Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh, một trong những thành viên khởi đầu đến với Phong trào hình thành “Ban Đồng Ấu” tại Huế, và là Huynh Trưởng tiền nhiệm dẫn đạo hình thành tổ chức Gia Đình Gia Đình Phật Tử tại Nam Việt thuộc Hội Phật học Nam Việt.

Tháng 05/1951, Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc họp tại Chùa Từ Đàm, chốn Thần Kinh Huế, để thảo luận về tương lai Đạo Pháp. Đại hội gồm trên 50 Đại biểu Tăng già và Cư sĩ của 6 tập đoàn Phật Giáo:
- Giáo hội Tăng già Bắc Việt.
- Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt
- Giáo hội Tăng già Trung Việt
- Hội Phật giáo Trung Việt
- Giáo hội Tăng già Nam Việt
- Hội Phật học Nam Việt,
của ba miền đã quyết nghị thống nhất Phật Giáo Việt Nam với danh hiệu: “Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam” và tôn thỉnh Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết đảm vị Hội chủ. Đồng thời quyết nghị chấp thuận lấy bản nhạc “Phật Giáo Việt Nam thống nhất” (do Nhạc sĩ Lê Cao Phan, Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam sáng tác) làm nhạc lễ chính thức của Phật Giáo Việt Nam.
Sau cuộc vận động bình đẳng tôn giáo, tự do tín ngưỡng của Pháp nạn 1963 thành công. Năm 1964 Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc họp tại chùa Xá Lợi, quyết nghị thành lập “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất”, bởi một hiến chương quy định Giáo Chế, và cơ cấu Tổ chức hành chánh, quản trị của Giáo hội.

THỜI KỲ SƠ KHAI HÌNH THÀNH
(BAN ĐồNG ẤU 1938-1945)

TẠI TRUNG KỲ (Thừa Thiên, Huế)

Hoàn cảnh đất nước, từ khi Đoạn Quận Công Nguyễn Hoàng thật sự rời đất Bắc (1600), đời Vua Lê Kính Tông, cát cứ với cuộc Nam tiến (1611-Tân Hợi) mở rộng giang sơn “Xứ Đàng Trong - Đại Việt” đặt đô thành tại Phú Xuân - Huế cho đến lúc Vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi (1802) thì Huế - Thừa Thiên trở thành Kinh Đô nước Việt Nam. Những tinh hoa văn hóa, lịch sử, phong tục, tín ngưỡng tôn giáo được hội tụ tại Đế Đô Thuận Hóa (Huế). Cùng với lòng sùng kính của các nhà đương quyền và quần chúng Phật Tử, Phật Giáo đã thiết lập được những ngôi chùa tráng lệ, và được sắc phong: Quốc Tự (Chùa Quốc Ân, Chùa Thuyền Tôn, Chùa Thiên Mụ, Bảo Quốc, Diệu Đế), những Đạo tràng Thanh tịnh, đào tạo Tăng giới, xuất hiện nhiều bậc tôn túc tài cao, đức trọng truyền thừa chánh pháp.

Do đó, những thập niên sau này (1960) trở đi, Cố đô Huế được tán dương là “Cái nôi” Phật Giáo, biểu trưng qua các thời kỳ chấn hưng, canh tân và công cuộc vận động bình đẳng tôn giáo của Pháp nạn năm 1963.

Vào khoảng năm 1938 (?) tại cố đô Huế, Ban Quản Trị Hội An Nam Phật học gồm quý cụ: Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Toàn, Bửu Bác, Lê Thanh Cảnh, Trợ Dư, Kỹ Sư Tôn Thất Tùng nhận thấy hội đủ điều kiện thuận lợi hình thành Tổ chức “Ban Đồng Ấu Phật Giáo” tại Chùa Từ Đàm, và cụ Bửu Bác trực tiếp phụ trách.

Bước đầu hình thành, các “Đồng Au” được chọn trong thành phần con em tín hữu thuộc giới trí thức, dòng dõi thế tộc, làm nòng cốt tổ chức, và hướng dẫn trong việc phát triển về sau tại các địa phương như:
+ Các chị Công Huyền Tôn Nữ Hà và Hân, ái nữ Ông Ngũ Đợi Nguyễn Phúc Vĩnh Trân.
+ Các chị Mân chị, Mân em và anh Lê Đình Luân của Gia Đình Bác sĩ Minh Tâm Lê Đình Thám.
+ Quý anh Nguyễn Hữu Sanh, Nguyễn Hữu Huỳnh, Bửu Cang, Bửu Phê, Tôn Thất Ngoạn, Tôn Thất Túy, Tôn Thất Phú, Tráng Thông (con Kỳ Ngoại Hầu Cường Để), Lê Lừng, Lê Bối, Nguyễn Hữu Viện) v.v...

Song hành việc hình thành “Ban Đồng Ấu”, Ban Quản Trị thành lập “Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục” thuộc thành phần thanh niên trí thức đã vào đời với địa vị ngoài xã hội, hoặc đang là sinh viên Ban Cao Đẳng. Để nghe giảng luận và nghiên cứu Phật học, gồm có quý vị như sau:
Anh Đinh Văn Nam (nay Hòa Thượng Thích Minh Châu), Anh Võ Đình Cường , Phạm Quy, Lê Bối, Ngô Điền, Đinh Văn Vinh, Nguyễn Hữu Quán, Lê Đình Luân, Lê Lừng v.v…

Tổ chức “Đồng Ấu” lúc bấy giờ, cơ cấu điều hành, hình thức sinh hoạt chưa có hệ thống quy củ, và phát triển có tính cách địa phương, nên ít có dịp sinh hoạt chung để được gặp gỡ liên hệ hiểu biết nhau, ngoài trừ Họp Bạn (1942?) tại đồi thông Quảng Tế (nhà máy lọc nước) ở Nam Giao, dịp này có sự thăm viếng của phái đoàn Ban Quản trị Hội An Nam Phật học do cụ Nguyễn Khoa Toàn hướng dẫn, và lần thứ 2 tại Chùa Túy Vân thuộc vùng cửa biển Tư Hiền (đi về bằng thuyền qua cầu ngói Thanh Toàn), sau cùng là Trại Họp Bạn tại Lăng Cô
Nội dung học kinh, tụng niệm, rước lễ, dâng hoa trong các ngày tại đại lễ Phật Giáo, vui chơi, tập hát theo nhạc điệu cổ xưa (Kim Tiền, Đăng Đàn cung) như bài “Muốn tu lòng diệu minh, Vui mừng gặp ngày nay mồng 8 tháng tư, Lòng dặn lòng nhân ái…” và một số bài hát theo nhạc điệu tân tiến Tây phương như bài “Cùng tiến đi lên đường, đồng tâm cầm tay nhau dắt…” “Càng đông chúng ta càng vui nhiều…” Bài hát lửa trại (Feu de camp) của Hướng Đạo được đổi lời Phật Giáo: “Anh em ta, mau tiến bước theo gương Bổn Sư chúng ta…” và các bài bằng Pháp ngữ: Aurevoir Scout, Chanson'd Alouette. Cũng như lửa trại, gút, morse, trò chơi… nhập khuôn của Hướng Đạo (do các Anh Tráng Thông, Lê Bối… gốc Hướng Đạo chỉ dẫn).

Trang phục thì áo dài đen (nữ màu trắng), quần dài trắng học trò, về sau (1943?) mới bắt đầu có đồng phục áp chemise màu đà ngắn tay, túi có nắp, quần đùi đen dây lưng thun, mũ casque trắng, hoặc nón lá (nhất là khi đi trại), nhưng chưa đồng bộ, trong khi bên Hướng Đạo áo màu gụ, quần short xanh, mũ vành có chóp và mũ nồi (beret).

Các dịp đại lễ, hay hành lễ các ngày Vía Phật đều được mang thêm một bằng vải màu vàng, từ vai tay trái qua trước ngực chạy xéo xuống tà áo bên phải với dòng chữ màu đỏ "Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật"

Hệ thống điều hành lúc bấy giờ:
+ “Ban Phụ Trách Đồng Ấu Phật Giáo” trực thuộc Ban Quản Trị Hội An Nam Phật Học.
+ Tại địa phương là “Ban Đồng Ấu”, do Khuôn hội Phật học cử 1 thành viên đứng tuổi, uy tín, năng động và có trình độ văn hóa liên hệ với “Ban phụ trách vùng” (thành viên Ban phụ trách Đồng Ấu) để tiếp nhận các cách thức thành lập Ban Đồng Ấu Khuôn Hội.

Ban Đồng Ấu phân chia thành các Đội, Chúng. Thời này việc chiêu mộ đoàn sinh rất khó khăn, phần lớn là phái nam, nữ rất hiếm, ngoại trừ tại Huế và vùng phụ cận (Kim Long, Long Thọ, Vĩ Dạ, An Cựu...).

Lúc sơ khai này đã lấy Hoa Sen 8 cánh (không rõ tác giả thiết kế, cũng như minh định ý nghĩa) làm biểu tượng chung cho từng Đội, Chúng của Ban Đồng Ấu với màu sắc khác nhau như:
+ Đội Sen Xanh, Chúng Sen Vàng
+ Đội Sen Đỏ, Chúng Sen Trắng...

Đây là mốc hình thành đầu tiên tiêu biểu cho truyền thống Huy Hiệu “Hoa Sen”, và bài “Trầm Hương Đốt” (cúng dường Chư Phật do Cụ Bửu Bác sáng tác) ngày nay của Gia Đình Phật tử Việt Nam.

Thời kỳ phục hồi với danh hiệu “Gia Đình Phật Hóa Phổ”, huy hiệu Hoa Sen được chuyển thành biểu tượng truyền thống chung của Tổ Chức “Gia Đình Phật Hóa Phổ” thay vì trước đây chỉ hạn hẹp trong Đội, Chúng “Đồng Ấu”, và hình thức thẩm mỹ hơn, cùng với bản nhạc “Sen Trắng” làm Đoàn ca chính thức của Gia đình Phật tử Việt Nam.

Ngoài việc học kinh nghĩa, nghi thức tụng niệm, sinh hoạt linh động về trí năng, kèm theo là làm “VIỆC THIỆN” để phân giải cho các em thấu hiểu trong hành xử lòng Từ Bi, Vị Tha...
Trong những dịp đi cắm trại, ngoài những sinh hoạt thường lệ, còn có mục làm “Việc Thiện”, như truyền bá vệ sinh, quét dọn những khu ô uế, rác rưởi, khơi mương rãnh, quy tụ các em nhỏ địa phương cùng vui hát, dự lửa trại. Thời kỳ này, các hình thức phô diễn như phù hiệu, cấp hiệu hay danh xưng các cấp điều khiển chưa có đặt ra. Vị đứng đầu Ban Đồng Ấu gọi là “Anh Phụ Trách”, nếu luống tuổi thì “Bác Phụ Trách”, (chưa có danh từ Huynh Trưởng, Gia Trưởng).

Tuy sơ khai và non trẻ, với những hoạt động thực tiễn đã đem lại sự hứng khởi và tin tưởng trong hàng tín hữu, cũng như lớp trẻ Thanh, Thiếu, Đồng niên tại thành thị và nông thôn thời bấy giờ.

Năm 1945 biến cố Lịch sử đất nước và cuộc chiến tranh chống Pháp bùng nổ, mọi sinh hoạt đều gián đoạn.
TẠI BẮC KỲ (Hà Nội)

Cùng bối cảnh chung của Phong trào Chấn hưng Phật Giáo. Tại Bắc Kỳ sau khi thành lập Hội Phật Giáo Bắc Kỳ (1934) đặt tại trụ sở tại Chùa Quán Sứ Hà Nội do Cư Sĩ Nguyễn Năng Quốc làm Hội Trưởng, Hội đã cung thỉnh Hòa thượng Thanh Hanh làm Thiền gia Pháp chủ.

Tháng 05/1945 danh hiệu Hội được cải đổi là Hội Việt Nam Phật Giáo do Hòa Thượng Tuệ Tạng (Tổ Cồn) làm Hội Trưởng và nhị vị Tố Liên, Trí Hải được Ủy nhiệm điều hành thường trực công việc Hội.

Từ khi thành lập Hội, ngoài việc kết hợp sơn môn, tu đính giới luật Tăng sự, thiết lập Đạo tràng, Phật học đường tại các Tổ đình để đào tạo Tăng chúng. Đồng thời Chư Thượng Tọa cùng một số Cư sĩ trong Ban Quản Trị Hội thực hiện việc quy tụ Thanh, Thiếu, Đồng niên, con em hội viên hình thành Ban Đồng Ấu, hàng tuần chiều thứ Năm và sáng Chủ Nhật đến Chùa học Kinh Nghĩa, rước lễ dâng hoa các ngày đại lễ, tụng niệm, sinh hoạt vui chơi, tập hát các bài hát theo điệu nhạc truyền thống dân tộc, do Cư sĩ Thiều Chửu (tác giả cuốn Hán Việt tự điển) hướng dẫn. Đó là thời kỳ sơ khai hình thành Ban Đồng Ấu Phật Giáo tại Bắc Kỳ.
Năm 1946 cuộc chiến tranh chống Pháp bùng nổ, Hội cũng như tổ chức Đồng Ấu gián đoạn sinh hoạt

THỜI KỲ PHỤC HỒI VÀ CẢI CÁCH (1948-1953)

TẠI TRUNG VIỆT

Năm 1948 sau những ngày tản cư và hồi cư, do khuyến khích của Chư Tôn đức Giáo phẩm Tăng già tại các Quốc tự và Chư vị Cư sĩ thành viên Ban Quản Trị Hội An Nam Phật học tại Huế trong việc phục hồi tổ chức Đồng Ấu.

Từ đó đã có cuộc gặp gỡ đầu tiên (1948 - 1949?) của một số Anh Chị đầy đạo tâm, từng suy tư về giáo dục trẻ, đã từng tham dự từ khởi đầu hình thành tổ chức “Ban Đồng Ấu” cũng như “Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục”, tại biệt thự số 11 đường Nguyễn Hoàng (thời trước Rue Paul Bert). Những cuộc gặp gỡ bàn luận về sau tại Chùa Từ Đàm do Anh Võ Đình Cường đảm trách cùng với quý Anh Chị Lê Cao Phan, Hoàng Thị Kim Cúc, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy, Cao Chánh Hựu v.v...

Sau thời kỳ gặp gỡ hội bàn và hoạch định các hình thức sinh hoạt, phục hồi tổ chức với đường hướng cải cách nội dung cũng như hình thức, đồng thời lấy danh hiệu là “Gia Đình Phật Hóa Phổ” thay danh xưng “Đồng Ấu Phật Giáo” của thời kỳ sơ khai trước đây, dưới sự bảo trợ, cố vấn giáo lý của quý Thầy:
- Thích Minh Châu (nay là Hòa Thượng)
- Thích Thiên Ân (Hòa Thượng viên tịch tại Hoa Kỳ)
- Thích Đức Tâm, Thích Chân Trí.
- Thích Trí Không v.v…

Từ đây đã thành lập hai đơn vị đầu tiên là Gia Đình Phật Hóa Phổ Hướng Thiện do Bác Phan Cảnh Trí làm Gia Trưởng, và Gia Đình Phật Hóa Phổ Gia Thiện do Bác Nguyễn Văn Phiên làm Gia Trưởng, và tổ chức bắt đầu sự cải cách cơ cấu điều hành, chương trình tu học, các hình thức sinh hoạt như:
+ Đồng phục, phù hiệu, cấp hiệu.
+ Chia hai ngành Nam, Nữ.
+ Chia đơn vị Đội, Chúng, Đoàn, Gia Đình
+ Tổ chức Trại huấn luyện cho Đoàn viên và Huynh Trưởng.

Sau đó, Tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ ngày càng phát triển sâu rộng khắp các Chùa và Khuôn Hội tại Cố đô Huế tới nông thôn, rồi Đà Nẵng, Đà Lạt, Quảng Trị, Quảng Bình, Nha Trang, Phan Thiết. Và thiết lập các trại huấn luyện ngành các cấp và Huynh Trưởng, bầu cử Ban Hướng dẫn cấp địa phương và Trung Việt.

Năm 1949, Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Hóa Phổ Thừa Thiên Huế được thành lập với thành phần:
+ Trưởng Ban: Anh Lê Cao Phan
+ Các thành viên: Quý Anh Tráng Thông, Võ Đình Cường, Phan Xuân Sanh, Lê Văn Dũng v.v...

Các năm tiếp theo, Tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ tại Trung Việt đã phát triển khắp các Tỉnh (như nêu trên), từ Thành Thị đến Huyện, Xã với đội ngũ Huynh Trưởng được đào tạo qua các Trại Huấn luyện A Dục.

Trước sự phát triển rộng khắp ấy, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo chung, nên Gia Đình Phật Hóa Phổ đã triệu tập cuộc họp tại Trụ Sở Hội Phật Học Trung Việt (đường Nguyễn Hoàng) bầu Ban Hướng dẫn Trung Việt Gia Đình Phật Hóa Phổ (1951) gồm:
+ Trưởng Ban: Anh Võ Đình Cường
+ Các thành viên: Quý Anh Lê Cao Phan, Lê Mộng Đào, Phan Cảnh Tuân, Nguyễn Xuân Quyền, chị Hoàng thị Kim Cúc v.v...

Ngày 06/05/1951 Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo 3 miền được tổ chức tại Tổ Đình Chùa Từ Đàm, Cố Đô Huế, lấy danh hiệu "Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam". Trong dịp này, khóa huấn luyện Huynh Trưởng đầu tiên do Ban Hướng dẫn Gia Đình Phật Hóa Phổ Thừa Thiên Huế được ủy nhiệm đảm trách tổ chức, với sự tham dự của Huynh Trưởng ba miền, lấy tên “Trại KIM CANG” và thành phần tham dự trại gồm:
+ Ban Trại Trưởng: Anh Võ Đinh Cường, quý Anh Lê Cao Phan, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy v.v...
Thành phần trại sinh:
+ Bắc Việt: Quý anh Lê Vinh, Đặng Văn Khuê, Trần Thanh Hiệp v.v...
+ Nam Việt: Anh Nguyễn Hữu Huỳnh
+ Trung Việt: đa số.

Đến năm 1954 Gia Đình Phật tử tại Thừa Thiên Huế và số lớn các tỉnh ở Trung Việt và Cao Nguyên đã tiến triển khả quan, với cơ cấu Tổ chức quy củ, các kỹ năng sinh hoạt và tu học hoàn chỉnh, cũng như một lực lượng Huynh Trưởng đông, đầy đạo tâm và khả năng.

Từ đó, trở nên khuôn mẫu trong việc canh tân và phát triển, hướng đến thống nhất toàn diện Tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam (tại miền Nam Việt Nam) sau ngày đất nước bị qua phân hai miền Nam, Bắc.

TẠI BẮC VIỆT

Năm 1946 cuộc chiến tranh chống Pháp bùng nổ, mọi hoạt động của Hội Việt Nam Phật Giáo bị gián đoạn.

Năm 1947, Hội phục hồi hoạt động, Cư Sĩ Bùi Thiện Cơ được bầu làm Hội Trưởng, Thượng Tọa Thích Tố Liên làm Phó Hội Trưởng Ban Quản trị. Thượng Tọa thành lập tại Chùa Quán Sứ một nhi viện nuôi dưỡng khoảng 200 em mồ côi, và mở trường tiểu học Khuông Việt.

Do có sự quan tâm đặt biệt trong giáo dục đối với tuổi thiếu sinh, Thượng Tọa kết tập các em mồ côi với học sinh Khuông Việt cùng các Đồng Ấu thành đoàn ngũ lấy danh xưng là “Gia Đình Phật Hóa Phổ”, ủy nhiệm Trưởng Thông Phương Đặng Văn Khuê xây dựng, trông nom Gia Đình Phật Hóa Phổ sơ khởi này.

Vào khoảng năm 1949 - 1950 Gia Đình Phật Hóa Phổ lớn mạnh, đã phân chia thành Đoàn, Đội, Chúng và chia thành hai ngành nam nữ do Huynh Trưởng phụ trách. Đồng thời thành lập đơn vị “Gia Đình Phật Hóa Phổ Minh Tâm” là đơn vị đầu tiên tại Chùa Quán Sứ Hà Nội, dưới sự Bảo Trợ, Cố Vấn Giáo Lý của nhị vị Tôn Túc Giáo Phẩm:
+ Đại Đức Thích Thanh Kiểm (nay Hòa Thượng)
+ Đại Đức Thích Tâm Giác (cố Hòa Thượng)

Với thành phần Ban Huynh Trưởng:
+ Gia trưởng: Đạo Hữu Viên Quang
+ Liên Đoàn Trưởng: Anh Lê Vinh
+ Ủy viên: Anh Trần Thanh Hiệp
+ Đoàn Trưởng Thiếu Niên: A. Đặng Văn Khuê
+ Đoàn Trưởng Thiếu Nữ: Chị Tuệ Mai
+ Đoàn Trưởng Đồng Niên: A. Đỗ Văn Tuyển
+ Đoàn Trưởng Đồng Nữ: Chị Trần Thị Ngọ v.v...

Tiếp đó thành lập Gia Đình Liên Hoa, Minh Đạo, Từ Quang, Phả Quang và phát triển rộng lớn đến Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh, Vĩnh Yên v.v...

Tháng 05/1951 Đại Hội Phật Giáo ba miền họp tại Chùa Từ Đàm, Cố Đô Huế, đã quyết nghị thống nhất Phật Giáo với danh hiệu: “Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam”.

Song hành với dịp Đại Hội này, Trại Huấn Luyện Kim Cang được tổ chức nhân các Huynh Trưởng cấp Tỉnh trở lên của ba miền về Dự Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo, đã hội thảo tiến tới thống nhất hình thức tổ chức, sinh hoạt đoàn thể Phật Tử (Gia Đình Phật Hóa Phổ). Phái đoàn Huynh Trưởng Bắc Việt được cử về dự gồm có các Trưởng:
+ Tâm Thiết Trần Thái Hồ (Lê Vinh)
+ Thông Phương Đặng Văn Khuê
+ Chân Quang Trần Thanh Hiệp
Qua các cuộc hội thảo và trại huấn luyện Kim Cang danh xưng “Gia Đình Phật Hóa Phổ” được cải đổi thành danh xưng “Gia Đình Phật Tử Việt Nam". Sau đó nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển, canh tân và hướng dẫn, Hội Việt Nam Phật Giáo thành lập Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Bắc Việt, để điều hành các đơn vị Gia Đình Phật Tử tại Bắc Việt với các thành phần như sau:
+ Trưởng Ban: Bác Nguyễn Văn Nhã
+ Phó Trưởng Ban: Anh Lê Vinh, Chị Tuệ Mai
+ Ủy viên: A. Trần Thanh Hiệp , A. Lê Văn Lãm, chị Ni v.v...
Tháng 01/1953 phái đoàn đại biểu Gia Đình Phật Tử Bắc Việt gồm có Bác Nguyễn Văn Nhã, Anh Lê Văn Lãm, quý Chị Ni, Tuệ Mai, Diệu Minh và Ty được cử vào dự Đại Hội Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử toàn quốc họp tại Chùa Từ Đàm (Huế), hội thảo các dự án thành lập Nội Quy, Chương trình Tu Học và sinh hoạt thống nhất.

Gia đình Phật Tử tại miền Bắc ngày càng phát triển khắp đến Phúc Yên, Hải Dương, Hà Đông, Bắc Giang. Các Khóa Huấn Luyện Huynh Trưởng lưu động được tổ chức tại mỗi Tỉnh hạt.

Năm 1953 Trại Bồ Đề I Huấn luyện Đội, Chúng Trưởng và Đoàn Phó được tổ chức tại Phúc Yên do Anh Bùi Ngọc Bách làm Trại Trưởng. Trong khoảng thời gian này lại được thêm các Trưởng Nguyễn Minh Hiền, Phạm Mạnh Cương từ Huế ra Hà Nội học, đã tăng cường thêm sức cho các hoạt động Gia Đình Phật Tử tại Bắc Việt.

Đầu năm 1954, Trại Họp Bạn Vô Ưu được tổ chức tại Chùa Voi Phục (Láng), qui tụ tất cả các Gia Đình Phật Tử các Tỉnh cùng về dự, và do trưởng Nguyễn Minh Hiền làm Trại Trưởng. Đây là Trại Họp bạn sau cùng đánh dấu sự phát triển và lớn mạnh của tổ chức Gia Đình Phật Tử tại Bắc Việt, và sau đó nhận lấy sự qua phân hai miền Bắc Nam bởi hiệp định chiến Génève.
TẠI NAM VIỆT
Hoàn cảnh Nam Việt từ 1947 trở về trước khác với Bắc và Trung Việt, về sau mặc dầu đã có xu hướng và ý định tiến đến hình thành Tổ chức Gia Đình Phật Tử, song không đủ nhân sự chuyên trách, cũng như thông hiểu hình thức và nội dung tổ chức.

Đến năm 1951, cơ duyên thuận lợi cho công cuộc Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam, sau gần 3/4 thế kỷ bị phân ly do chính sách thống trị và ngược đãi của thực dân Pháp. Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo ba miền được tổ chức tại Chùa Từ Đàm cố Đô Huế gồm có 6 tập đoàn Tăng Già và Cư Sĩ:
+ Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt
+ Hội Việt Nam Phật Giáo Bắc Việt
+ Giáo Hội Tăng Già Trung Việt
+ Hội Phật Giáo Trung Việt
+ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt
+ Hội Phật Học Nam Việt.

Phái Đoàn Hội Phật Học Nam Việt do Thượng Tọa Thích Quang Minh, Hội Trưởng, Trưởng Phái Đoàn và các thành viên gồm có:
+ Cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Tổng Thư Ký Hội Phật Học Nam Việt.
+ Đạo Hữu Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh, Phó Tổng Thư Ký Hội Phật Học Nam Việt.
+ Đạo Hữu Trần Khoan Hậu
Đạo Hữu Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh về dự Đại Hội Thống Nhất Giáo Hội Phật Việt Nam với tư cách thành viên phái đoàn Hội Phật Học Nam Việt. Song Ban Trưởng Trại Huấn luyện Khóa Kim Cang dò biết vị đại biểu trẻ nhất phái đoàn Nam Việt có phong độ năng động, linh hoạt, hầu như đã từng trải về sinh hoạt thanh niên, và chính là một đồng hương Huế, đang là một Huynh Trưởng Hướng Đạo tại Sài Gòn, nên đã tìm cách vận động, thúc đẩy tham gia Trại Kim Cang, để tiến tới hình thành tổ chức Gia Đình Phật Tử tại Nam Việt (Tại Khóa tu học Anoma của Gia Đình Phật Tử Vĩnh Nghiêm 1993, Trưởng Hồng Liên Phan Cảnh Tuân, giảng viên, cho biết hồi đó Trưởng phải chạy từng bộ đồng phục Lam cho Trưởng Huỳnh để dự khóa huấn luyện).

Vốn sẵn sòng máu (phần này dựa theo cuốn “Thử tìm hiểu nguồn gốc Gia Đình Phật Tử Việt Nam” của Trưởng Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh) truyền thống Phật Giáo và đã đến với Ban Đồng Ấu thuộc Hội An Nam Phật Học từ ngày đấu thành lập (1938) và vào sinh sống ở Sài Gòn hạ niên 1940, Trưởng Pháp Huệ chấp nhận dự trại huấn luyện.

Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo bế mạc, và Khóa huấn luyện Kim Cang kết thúc, Trưởng Huỳnh trở về Nam Việt với nỗi lòng hân hoan đấy phấn khởi: Sự Thống Nhất Phật Giáo, và Tổ chức Gia Đình Phật Tử kết chặt “Tình Lam con Phật” nhằm canh tân và phát triển Gia Đình Phật Tử khắp ba miền.

Với cảnh trạng ấy, đã đáp ứng được nỗi đam mê, ước vọng của Trưởng Huỳnh trong việc giáo dục Thanh, Thiếu Đồng niên hướng thiện, theo tinh thần đạo Phật. Từ đó với bao kiến thức sẵn có, cùng với những tài liệu thu nhập được ở Khóa Huấn luyện Kim Cang, Trưởng Huỳnh đã dành hết thì giờ và trí tuệ, quyết tâm thành lập bằng được Tổ chức Gia Đình Phật Tử tại Nam Việt.

Trước khi tiến hành thành lập, Trưởng Pháp Huệ cảm thấy trong BQT Hội Phật Học có Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ, Phó Hội Trưởng là người có đủ điều kiện về cơ sở vật chất (nhà cửa, phương tiện) và nhân lực (con cháu đông đúc) làm nhân, tác động hình thành Tổ chức Gia Đình Phật Tử tại Sài Gòn để dần dần lan rộng đến các Tỉnh.

Trưởng liền tìm đến tiếp xúc với Bác Sĩ Thọ trình bày mục đích, ý nghĩa Tổ chức Gia Đình Phật Tử đối với Đạo, và giáo dục Thanh, Thiếu, Đồng niên hướng thiện theo tinh thần Đạo Phật. Đồng thời trình bày đầy đủ về hình ảnh sinh động, hòa vui cũng như chương trình tu học và sinh hoạt Gia Đình Phật Tử, được Bác Sĩ Thọ thông cảm và tâm đắc khuyến khích đôn đốc Trưởng Huỳnh: - Đạo hữu nên mau tiến hành, Ban Quản trị Hội và tôi luôn ủng hộ. Bác sĩ liền giao biệt thự số 31 Nguyễn Thông (công xá được cấp theo công vụ), và con cháu trong gia quyến (gồm 28 nhân lực) làm khởi điểm hình thành Gia Đình Phật Tử tại Sài Gòn.

Từ đây một mình Trưởng Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh đảm trách mọi vai trò, vừa là người Huynh Trưởng Hướng Dẫn, vừa là một Đoàn sinh. Từ tổ chức thành đội ngũ, giảng dạy Phật Pháp, tập hát, các trò chơi, các chuyên môn sinh hoạt thanh niên: gút, morse, dấu đi đường, tụng niệm kinh nghĩa, vạch chương trình sinh hoạt định kỳ, cho đến việc chiêu mộ thêm đoàn sinh...

Trong vòng thời gian gần ba tháng, các em đoàn sinh đã tiếp thu cách thức sinh hoạt, thuộc các bài hát: “Phật Giáo Việt Nam thống nhất”, “Trầm hương đốt”, “Dây thân ái”, “Dòng Anôma”, “Chúng ta là chim bốn phương...”, và đã thuộc kinh cùng nghi thức hành lễ “Sám hối”. Trưởng liền tổ chức Lễ ra mắt, thành lập Gia Đình Phật Tử CHÁNH TÂM tại mặt tiền sân thượng tư gia Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ, Lễ ra mắt đơn vị đầu tiên này trước sự chứng giám của Chư Tăng, và Ban Quản trị Hội Phật Học gồm có:
+ Thầy Đạt Từ, Thầy Quảng Liên (nay là Hòa Thượng Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức, Thủ Đức)
+ Toàn thể thành viên Ban Quản Trị Hội Phật Học Nam Việt.
Chứng kiến Lễ ra mắt,Thầy Quảng Liên đã hân hoan khen ngợi và khuyến khích mau chóng cho phát triển Tổ chức Gia Đình Phật Tử, để hướng dẫn tuổi trẻ đến với Chánh Pháp. Từ đó Tổ chức Gia Đình Phật Tử họ CHÁNH lần lượt hình thành tại Sài Gòn và mau chóng lan tới các tỉnh ở Nam Việt.

Vào khoảng hạ niên 1952 - 1953 được thêm Trưởng Nguyễn Văn Thục (tự giới thiệu nguyên là Gia Đình Phật Tử Chơn Trí - An Lăng, Huế) và tiếp theo đó có Trưởng Tống Hồ Cầm ở Đà Lạt xuống Sàigòn (Trưởng Huỳnh cho biết 1951, Trưởng là thành viên phái đoàn Phật Học Nam Việt về dự Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo ba miền tại chùa Từ Đàm, Huế được quen biết Trưởng Tống Hồ Cầm (Phái đoàn Trung Việt) và Đạo Hữu Viên Quang (Phái đoàn Bắc Việt), mà cả hai cùng Trưởng Huỳnh đều là thành viên Ban Thư Ký đoàn của Đại Hội, cũng như đã làm quen tại Khóa Huấn Luyện Huynh Trưởng đầu tiên của Trại Kim Cang cộng tác phát triển (Gia Đình Phật Tử thuộc Giáo Hội Tăng Già Nam Việt tại Chùa Ấn Quang) xây dựng Gia Đình Phật Tử Nam Việt, thuộc Hội Phật Học Nam Việt.

Qua tập sách "Người Áo Lam, sứ mệnh Gia Đình Phật Tử" của Anh Lữ Hồ Nguyễn Minh Hiền, Ủy viên Tu thư Ban Hướng Dẫn Trung Ương nhiệm kỳ I, niên khóa 1964 - 1966 đã diễn tả tại như sau:
“... Năm 1950 sau cơn ly tán tập hợp lại, tái lập tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ dưới sự hướng dẫn của chú Minh Châu, anh võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Phan Cảnh Tuân, chị Hoàng Thị Kim Cúc...”
“... như một đóa sen vươn cánh nở từ khắp đất thần Kinh. Ban Hướng Dẫn Thừa Thiên được thành lập. Lúc bấy giờ ở Sài Gòn anh Tống Hồ Cầm, Nguyễn Văn Thục tổ chức Gia Đình Phật Tử trực thuộc Hội Phật Học Nam Việt, lúc này còn rất nghèo ở Chùa Phước Hòa”...
Trại Kim Cang 1951, chỉ có Đại biểu Gia Đình Phật Hóa Phổ Trung và Bắc Việt, Nam Việt chưa có Gia Đình Phật Hóa Phổ nên anh Nguyễn Hữu Huỳnh Đại biểu phái đoàn Hội Phật Học Nam Việt được mời dự trại Huấn Luyện Huynh Trưởng như một Đại Biểu Gia Đình Phật Hóa Phổ Nam Việt dự trại Huấn Luyện như đã nói ở phần trên.
Trong khi tổ chức Gia Đình Phật Tử Nam Việt đang trên đà phát triển rộng khắp tại một số tỉnh, (tại Sài Gòn - Gia Định đã có đơn vị Gia Đình Chánh Tín, Chánh Thọ, Chánh Đạt, Chánh Minh, nhưng chưa hội đủ cơ duyên thành lập Ban Hướng Dẫn), do Trưởng Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh và sau đó được sự hợp tác (1952 - 1959) của Trưởng Tống Hồ Cầm (ở Đà Lạt xuống Sài Gòn) và Trưởng Nguyễn Văn Thục (cho biết nguyên ở Gia Đình Phật Tử Chơn Trí, An Lăng, Huế) để phát triển xây dựng Gia Đình Phật Tử Nam Việt, thì cục diện đất nước qua phân thành hai miền Bắc, Nam bởi Hiệp Định Đình Chiến Génève 1954.
Đến năm 1960, Đại hội Huynh trưởng Gia đình họ “CHÁNH” thuộc Hội Phật Học Nam Việt hội nghị tại Chùa Xá Lợi, thành lập Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Nam Việt, do Trưởng Tống Hồ Cầm làm Trưởng Ban. (Lâu nay biên giả có thắc mắc về khoảng thời gian 1960 trở đi thấy vắng danh Trưởng Huỳnh, mà khi mưu sinh tại Sàigòn lui tới Bạn Đoàn đầy tính tài tử tại Chùa Xá Lợi, Chùa Giác Minh, Chùa Phổ Quang thường được nghe nói về Trưởng Huỳnh với Gia Đình Phật Tử tại Chùa Xá Lợi, và với Đoàn Huynh Trưởng A Dục cùng với Trưởng Phan Cảnh Tuân.

Cũng như tại Đại Hội Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử năm 1964 tại Trường Nữ Trung Học Gia Long, (qua giới thiệu của Ban Tổ Chức) mới được biết Trưởng Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh là Cựu Huynh Trưởng. Tuy vậy chưa bao giờ may mắn đối diện, vì bản tính vốn thầm lặng, khiêm tốn trong giao tiếp.

Năm 1994 hân hạnh được Gia Đình Phật Tử Xá Lợi (Cố Gia Trưởng Mã Văn Tố tự Long) mời dự buổi trình diễn văn nghệ, lần đầu tiên được trực diện Trưởng Huỳnh. Về sau tại Lễ ra mắt Gia Đình Phật Tử Phổ Hiền (tại Khu Bảy Hiền) lại được hội ngộ Trưởng Huỳnh, nhân đấy tôi có đề cập thắc mắc như trên thì được Trưởng Huỳnh tỏ lời cảm ơn, với nụ cười “tình Lam” mà không giải đáp, nên cứ đánh dấu hỏi???
(còn tiếp)...

THỜI KỲ CANH TÂN VÀ PHÁT TRIỂN
HƯỚNG ĐẾN THỐNG NHẤT TOÀN DIỆN
(1953-1964)

A. Tiến trình phát triển và xây dựng:

Qua Đại Hội tháng 05/1951, cùng với Trại Huấn Luyện Kim Cang đầu tiên là cơ duyên mở đầu tinh thần thống nhất, và canh tân cơ cấu tổ chức điều hành, chương trình tu học và các hình thức sinh hoạt Gia Đình Phật Tử Việt Nam, thuộc tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.

Do đó, đã dẫn đến Đại Hội Gia Đình Phật Tử toàn quốc diễn ra vào tháng 01/1953 tại Huế, gồm có 63 Đại Biểu Huynh Trưởng chính thức của ba miền.

Kết quả Đại Hội đã thành lập Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử Việt Nam, và quyết nghị chấp thuận một nội quy và chương trình tu học, cùng hình thức sinh hoạt thống nhất toàn quốc.

Sau Đại Hội 1953, Gia Đình Phật Tử ba miền đã tỏ rõ sự trưởng thành và quy củ từ cơ cấu tổ chức đến điều hành, tu học, sinh hoạt, các hình thức phô diễn, đến việc đào tạo hàng ngũ Huynh Trưởng qua các khóa huấn luyện, làm nền tảng cho sự xây dựng và phát triển trong tương lai, nhằm tiến tới sự thống nhất toàn diện.
Qua năm 1954, Hiệp Định Đình Chiến Génève phân chia đất nước thành hai miền Nam, Bắc.

B. Gia đình Phật tử tại miền Nam Việt Nam
(1955-1975 Trung và Nam Việt)
(Từ Quảng Trị tới Bạc Liêu)

Đến năm 1955 Tổ chức Gia Đình Phật Tử Nam Việt đã hình thành và phát triển khả quan tại Đô Thành Sài Gòn - Gia Định và lan rộng tới các Tỉnh Biên Hòa, Cần Thơ, Mỹ Tho (Định Tường) Vĩnh Long (Long Xuyên)...

Hiệp định Génève đất nước qua phân thành hai miền Nam, Bắc. Năm 1955, đồng bào miền Bắc thuộc mọi thành phần nói chung, trong đó có đồng bào Phật Giáo và Huynh Trưởng, Đoàn Sinh Gia Đình Phật Tử nói riêng, di cư vào định cư tại Sài Gòn Gia Định và một số Tỉnh thuộc Nam Việt và ở Trung Việt.

Từ bấy giờ Tổ chức Gia Đình Phật Tử tại Nam Việt có thêm hai hệ thống của hai Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Bắc Việt tại Miền Nam:
+ Một thuộc Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt đặt trụ sở tại Chùa Giác Minh đường Phan Thanh Giản (nay Điện Biên Phủ).
+ Thứ hai, thuộc Hội Việt Nam Phật Giáo Bắc Việt đặt trụ sở tại Chùa Phước Hòa đường Phan Đình Phùng (nay Nguyễn Đình Chiểu).
Trong cảnh đất nước chia cắt Bắc - Nam, tạo ra những phức tạp, xáo trộn không tiên liệu được. Bởi vậy, ở thời gian giao thời lúc đầu không tránh khỏi những ngộ nhận và trở ngại trong hoạt động. Vì sự điều hành hoạt động và quản trị khác nhau, do thống thuộc mỗi tập đoàn Phật Giáo, và không được sự chỉ đạo chung, bởi một Ban Hướng Dẫn toàn quốc theo tinh thần Đại Hội 1953.

Tuy vậy, vẫn có sự quan hệ “Tình Lam, con Phật”, và hình thức tổ chức, tu học vẫn theo nội quy Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

Nhằm tạo hòa khí trước những ngộ nhận, dao động của giao thời và kết liên “Tình Đạo, Tình Lam”, Trưởng Huỳnh đã liên hệ với các Gia Đình Phật Tử họ Giác (thuộc Giáo Hội Tăng Giá Bắc Việt) và Gia Đình Phật Tử họ Minh (thuộc Việt Nam Phật giáo Bắc Việt) cùng Trưởng Hồng Liên Phan Cảnh Tuân (Gia Đình Phật Tử Trung Việt) thành lập Đoàn Huynh Trưởng A DỤC. Mục đích của Đoàn nhằm trao đổi kinh nghiệm, bồi bổ kiến thức trong vai trò Huynh Trưởng phụng sự Đạo Pháp, và hòa đồng hoạt động xây dựng Gia Đình Phật Tử Việt Nam, phù hợp với hoàn cảnh đương thời.

Năm 1960 nhằm kết liên tình Lam, Đoàn Huynh Trưởng A Dục do các Trưởng Nguyễn Hữu Huỳnh Phan Cảnh Tuân và Nguyễn Văn Thục hướng dẫn đã thăm Đà Lạt & giao lưu với GĐPT địa phương.
Nhờ sự quan hệ thắm thiết “Tình Lam, con Phật”, dầu sự thống nhất khác nhau, song cùng một lý tưởng phụng sự Đạo Pháp và xây dựng tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

Trong khoảng cuối năm 1960, Gia Đình Phật Tử họ “Chánh” thuộc Hội Phật Học Nam Việt tổ chức Hội nghị tại Chùa Xá Lợi, khởi đầu thành lập Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Nam Việt, do Trưởng Tống Hồ Cầm đảm trách Trưởng Ban Hướng Dẫn. Từ đây, tại Nam Việt có ba Ban Hướng Dẫn:
1. Ban Hướng dẫn GĐPT Nam Việt.
2. Ban Hướng dẫn GĐPT Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam.
3. Ban Hướng dẫn GĐPT Hội Việt Nam Phật Giáo Bắc Việt tại miền Nam.

Cuối năm 1960, sau cuộc họp sơ bộ tại Nha Trang Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Ủy Viên Thanh Niên Phật Tử Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, vào Sài Gòn họp với Đại Đức Ủy Viên Thanh Niên và một số Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Bắc Việt tại chùa Giác Minh. Các phiên họp này nhằm mục đích tìm phương thức đi đến thống nhất sự chỉ đạo các Gia Đình Phật Tử.

Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, đầy tế nhị của Thượng Tọa Ủy Viên Thanh Niên Phật Tử, cùng sự kết hợp Tình Lam qua Đoàn Huynh Trưởng A Dục bấy giờ, là một phần nhân tố duyên lành, dẫn đến Đại Hội Huynh Trưởng Toàn quốc họp tại Chùa Xá Lợi, từ ngày 26 tới 28-12-1961 bầu cử Ban Hướng Dẫn toàn quốc (như tinh thần Đại Hội 1953) gồm đủ thành phần Đại diện Bắc Trung Nam như:
+ Trưởng Ban: Thượng Tọa Thích Thiện Hoa
+ Phó Ban ngành Nam: Trưởng Tống Hồ Cầm.
+ Phó Ban ngành Nữ: Trưởng Hoàng Thị Kim Cúc.
+ Tổng Thư Ký: Trưởng Trần Quang Thuận.
+ Phó Tổng thư ký: Trưởng Cao Chánh Hựu.
+ Thủ quỹ kiêm Đại diện Gia Đình Phật Tử Bắc Việt: Đạo Hữu Nguyễn Đức Lợi.

Kể từ đây trở đi tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam thể hiện tinh thần đoàn kết vững chắc với một ý chí xây dựng và củng cố hàng ngũ, phát huy đức tính Bi, Trí, Dũng phụng sự Đạo Pháp.

Do đó, đã trở thành một lực lượng kiên cường với trí tuệ trong sáng, góp phần vào công cuộc đòi hỏi tự do tín ngưỡng , bình đẳng Tôn Giáo, theo Giáo lệnh của Đức Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và của Ủy Ban Liên phái bảo vệ Phật Giáo năm 1963.

THỜI KỲ THỐNG NHẤT TOÀN DIỆN

Năm 1964, sau cuộc vận động tự do tín ngưỡng, bình đẳng Tôn Giáo của Pháp năm 1963, Đại hội Phật Giáo họp tại Chùa Xá Lợi, gồm sáu tập đoàn Tăng già và cư sĩ Bắc Trung Nam và Giáo hội Phật giáo Nam Tông (Nguyên thủy), đồng nhất quyết nghị thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, với bản văn Hiến chương ấn định giáo chế, cơ cấu tổ chức điều hành Giáo hội gồm 2 viện: Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo (gồm có các Tổng vụ và các vụ).

Đồng thời đặt Gia Đình Phật Tử thuộc Tổng vụ Thanh niên, trực nhiệm GĐPT vụ viện Hóa Đạo.

Chiếu Hiến Chương Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tháng 06/1964, Gia Đình Phật Tử đã tiến hành đại hội Huynh trưởng toàn quốc họp tại trường Trung học Gia Long (Sài Gòn), bầu cử Ban Hướng dẫn Trung Ương, quyết nghị nội quy, quy chế Huynh Trưởng và các chương trình tu học, sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử Việt Nam thống nhất.

Từ đây, tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam từ cấp Ban Hướng Dẫn Trung Ương, xuống Ban Đại diện Gia Đình Phật Tử Miền, đến Ban Hướng Dẫn cấp Tỉnh phân định thành bảy miền:

1. Vạn Hạnh (Bắc Trung phần)
2. Liễu Quán (Nam Trung phần)
3. Khuôn Việt (Cao Nguyên Trung phần)
4. Khánh Hòa (Đông Nam phần)
5. Quảng Đức (Thủ Đô Sàigòn)
6. Vĩnh Nghiêm (Phật tử Bắc Việt)
7. Khánh Anh (Hậu Giang Nam phần)
8. Huệ Quang (Tiền Giang Nam phần) về sau được bổ sung thêm.

Cấp Miền có Ban đại diện Gia Đình Phật Tử Miền. Cấp Tỉnh có Ban Hướng dẫn Gia Đình Phật Tử Tỉnh. Ban Hướng dẫn Gia Đình Phật Tử Miền Vĩnh Nghiêm ngang cấp Ban Hướng Dẫn Tỉnh. Cấp Quận có Ban Đại diện Gia Đình Phật Tử Quận.

Sau năm 1964, Gia Đình Phật Tử Việt Nam đã cường thịnh về mọi mặt, tổ chức điều hành cùng chương trình tu học, theo đúng mục đích: Học Đạo và giáo dục Thanh, Thiếu, Đồng niên theo tinh thần luân lý Đạo phật, do chư bậc tôn đức Tăng già và chư vị Cư Sĩ uyên bác (Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám) tiền bối sáng lập.

Cho nên, dù trong cảnh huống nào Gia Đình Phật Tử vẫn giữ đúng truyền thống thuần túy Đạo Phật với hạnh nguyện Tự Giác, Giác Tha để phụng sự Đạo pháp và kết liên “Tình Lam” con Phật.

KẾT LUẬN

Từ phôi thai hình thành “Ban Đồng Ấu Phật Giáo” qua “Gia đình Phật Hóa Phổ” kết thành “Gia đình Phật Tử” dù trải qua bao trở lực khó khăn. Tổ chức Gia Đình Phật Tử vẫn đứng vững và trưởng thành trong sự dưỡng dục, đùm bọc của chư tôn đức Tăng già, Cư sĩ giáo phẩm Phật giáo Việt Nam; theo truyền thống Phật giáo và mục đích giáo dục Thanh, Thiếu, Đồng niên hướng thiện theo tinh thần đạo Phật.

Trong hơn 50 năm (1938-1996) trong tu học và trong phụng sự đạo Pháp, Huynh Trưởng và Đoàn sinh Gia Đình Phật Tử Việt Nam, đã có những đóng góp quang minh, đầy trí tuệ theo Ánh sáng giác ngộ của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật.

Do đó, dầu ở thời gian hay không gian nào, hay cách biệt nhau trong mưu sinh phương trời nào, “Tình Lam” vẫn thắm thiết, chan hòa ánh đạo vàng Từ Bi, Vị Tha.

Qua những dữ kiện diễn tiến hình thành từ sơ khai “Ban Đồng Ấu” đến danh hiệu “Gia Đình Phật Tử Việt Nam” ngày nay có thể được minh chứng và khẳng định “Ban Đồng Ấu” là tiền thân của “Gia Đình Phật Tử Việt Nam”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quyển Hội Phật Học Nam Việt.
2. Tài liệu Huấn Luyện Huynh Trưởng, Trường đào tạo Huynh Trưởng A-DẬT-ĐA biên soạn 1964.
3. Đặc san Ái Hữu Vĩnh Nghiêm, 1995.
4. Thử tìm hiểu nguồn gốc Gia Đình Phật Tử Việt Nam, của Trưởng Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh 1995 cùng thư trao đổi của Anh Lê Lừng với trưởng Nguyễn Hữu Huỳnh.
5. Người Áo Lam - Sứ mệnh Gia Đình Phật Tử của Trưởng Lữ Hồ Nguyễn Minh Hiền, Ủy Viên Tu Thư Ban Hướng Dẫn Trung Ương nhiệm kỳ 1964-1966.
6. Gia đình Phật Tử cương yếu và tổ chức của cố Trưởng Huynh Cấp Dũng Như Tâm Nguyễn Khắc Từ, Ủy viên Nghiên Huấn Ban Hướng Dẫn Trung Ương.
7. Đạo Phật Hiện đại hóa của Hòa Thượng Nhất Hạnh.
8. ANÔMA, Tài liệu Khóa Tu học Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Tổ Đình Vĩnh Nghiêm, năm 1993.

Những ghi nhớ của biên giả từ Đồng Ấu đến trở thành Huynh Trưởng cấp Tấn, và đảm nhiệm Trưởng Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Miền Vĩnh Nghiêm, Ủy viên Thiếu Nam Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Trung Ương nhiệm kỳ 1966 đến 1975.

PHỤ LỤC
VÀI BÀI HÁT TỪ THỜI SƠ KHAI “ĐỒNG ẤU”

1. Bài KHUYẾN TU
Muốn tu lòng diệu minh
Phải chăm giữ giới luật cho rành
Phải chăm giữ cho rành, chớ nên kinh
Đừng sát sinh, không dâm tà, không uống rượu, không nói xàm.
Chẳng tham quấy, chăm lòng mựa đừng sai
Kìa ai, hôm nay kinh kệ
Đèn tuệ soi lòng, dặn lòng chay lòng
Xa vòng tham ái sân si, xa vòng tham ái sân si
Khá ghi giới luật nhà Phật
Những bậc xuất gia khá ghi giới luật nhà Phật.

2. Bài TIẾN LÊN ĐƯỜNG
Cùng tiến đi lên đường, đồng tâm cầm tay đưa dắt nhau, đi đến con đường đầy vui, ngay lành, đi lên đi.
Gia đình ta luôn theo dúng châm ngôn, trau dồi thâm tâm, theo Đức Thế Tôn.
Cùng lòng tươi sáng, hòa đồng cùng tâm Từ Bi.
Dìu dắt nhau tu hành, lòng mong ngày sau tươi tốt hơn. Luôn nhớ theo lời nguyện, gia đình ta nên ghi.
Thương người ta nên luôn giúp cho. Thương nhà ta nên luôn cố gắng, luôn theo. Từ Bi, Bác ái là đường đầy hoa về sau.

3. Bài LÒNG NHÂN ÁI
Lòng dặn lòng nhân ái, chí nguyện chí tinh cần
Lòng dặn lòng trong sáng, chí nguyện chí tu hành.
Đường trường chông gai chớ sờn lòng
Kiên tâm gắng cùng tiến, theo Đức Từ Phụ Thích Ca.

4. Bài NHẢY LỬA TRẠI
Nhạc của Hướng Đạo (Feu de Camp) đổi lời Phật giáo.
Anh em ơi! Mau tiến bước theo gương Từ Bi sáng ngời. Mau lên đi cùng tiến bước theo chân Bổn Sư chúng ta.
Đồng lòng đi / ơi người đi trước cùng theo Bổn Sư, theo chân Bổn Sư (2 lần).
Đi lên mau cùng vui hăng hái.
Sáng tươi thay trông gương Từ Bi.
TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC GĐPT VIỆT NAM. Jm210000
haquangto
haquangto
Admin

Tổng số bài gửi : 206
cảm ơn : 0
Join date : 13/12/2009
Age : 34
Đến từ : canh long tu

https://gdptcanhlong.forum-viet.net

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết